Các dấu hiệu rối loạn tiểu như tiểu đau buốt, tiểu rát, tiểu rắt; rối loạn cương dễ bị nhiều người bỏ qua vì nghĩ…
t.uổi già. Tuy nhiên, nó có thể là dấu hiệu cảnh báo bệnh ung thư t.iền liệt tuyến.
Theo PGS.TS Đỗ Trường Thành, Trưởng Khoa Phẫu thuật Tiết niệu, Bệnh viện Việt Đức ( Hà Nội), thời gian gần đây, bệnh viện tiếp nhận khá nhiều bệnh nhân bị mắc các bệnh về t.iền liệt tuyến, đáng nói, có những người mắc ung thư t.iền liệt tuyến ở t.uổi còn rất trẻ, mới ngoài 50 t.uổi.
Như trường hợp của bệnh nhân nam (56 t.uổi), phát hiện ung thư t.iền liệt tuyến từ 2 năm trước. Bệnh nhân may mắn được điều trị ở giai đoạn sớm với chỉ định cắt toàn bộ t.iền liệt tuyến. Đến nay, chức năng tiểu tiện của bệnh nhân tương đối bình thường, tình trạng ung thư chưa có dấu hiệu tái phát.
Tuy nhiên có nhiều trường hợp khác đến viện khi ung thư t.iền liệt tuyến đã di căn, do các biểu hiện sớm của loại ung thư này rất mơ hồ, không rõ ràng.
Theo PGS Thành, giai đoạn đầu của ung thư tuyến t.iền liệt, triệu chứng thường không rõ ràng hoặc có biểu hiện tương tự u phì đại lành tính nên rất khó phát hiện.
Các triệu chứng thường chỉ rõ ràng ở giai đoạn tiến triển, với các biểu hiện cảnh báo dưới đây:
– Đau lưng, hông
– Giảm cân
– Đau vùng khung chậu
– Tiểu đau buốt hoặc rát, không thể đi tiểu
– Có m.áu trong nước tiểu
– Tiểu đêm
– Khó khăn trong việc duy trì cương cứng
– Táo bón mãn tính và các vấn đề đường ruột khác
Đái khó, đái rắt, đái m.áu, đôi khi bí đái, đôi khi có biểu hiện tắc niệu quản. Đây là các biểu hiện thể hiện sự xâm lấn hoặc chèn ép gây tắc đường tiết niệu. Những vấn đề như đi tiểu khó khăn, bí tiểu…, thậm chí tiểu ra m.áu thường gặp ở người lớn t.uổi và không phải lúc nào cũng là dấu hiệu ung thư tuyến t.iền liệt. Cũng vì thế nhiều người chủ quan khi gặp các dấu hiệu cảnh báo này.
Trong khi đó, ung thư tuyến t.iền liệt là ung thư hay gặp nhất trong các loại ung thư tiết niệu ở nam giới trên 50 t.uổi.
Theo PGS Thành, t.iền liệt tuyến tuy không ảnh hưởng nhiều đến chức năng sống nhưng sẽ ảnh hưởng đến chức năng t.ình d.ục của nam giới. Các triệu chứng kích thích ở bệnh nhân tuyến t.iền liệt là đái nhiều lần, đái vội, đái són, đái khó, phải rặn, đái rớt nước tiểu sau cùng, đái không hết. Nặng hơn có thể gặp bí đái hoàn toàn hay không hoàn toàn, nhiễm khuẩn tiết niệu, đái ra m.áu…
Cần nhấn mạnh, những dấu hiệu trên cũng có thể cảnh báo ung thư, vì thế khi xuất hiện các triệu chứng bất thường, bác sĩ khuyên người bệnh nên đi khám sớm. Nếu không phải khối u ác tính, bệnh nhân cũng được điều trị các bệnh liên quan t.iền liệt tuyến.
Chuyên gia cũng khuyến cáo nam giới ngoài t.uổi 50 nên đi khám sàng lọc bệnh lý liên quan t.iền liệt tuyến. Để sàng lọc sớm bệnh t.iền liệt tuyến, bệnh nhân sẽ được bác sĩ chỉ định phương pháp định lượng kháng nguyên (PSA).
“Đây là xét nghiệm quan trọng giúp tầm soát, phát hiện sớm ung thư t.iền liệt tuyến. Với trường hợp có yếu tố gia đình, nên sàng lọc sớm hơn (dưới 40 t.uổi) để phát hiện bệnh. Tuy vậy, xét nghiệm PSA định kỳ chỉ nên thực hiện 2 năm 1 lần, trừ trường hợp đặc biệt”, PGS Thành khuyến cáo.
Ai nên xét nghiệm chỉ số PSA tìm nguy cơ ung thư t.iền liệt tuyến
Ung thư t.iền liệt tuyến là bệnh lý ác tính thường gặp ở nam giới cao t.uổi. Chỉ số PSA được đ.ánh giá là bước đột phá trong việc phát hiện và điều trị ung thư t.iền liệt tuyến.
Theo số liệu của cơ quan thế giới nghiên cứu ung thư IARC, ung thư t.iền liệt tuyến là loại ung thư đứng thứ tư toàn cầu tính chung cả hai giới (sau ung thư phổi, vú, đại – trực tràng).
Tuy nhiên, bệnh lý này khó phát hiện sớm ở giai đoạn đầu. Với xét nghiệm PSA và kỹ thuật sinh thiết tuyến t.iền liệt, ngày càng có nhiều trường hợp ung thư tuyến t.iền liệt, ngày càng có nhiều bệnh nhân được tầm soát và chẩn đoán sớm.
Những thông tin cơ bản về chỉ số PSA
PSA là một kháng nguyên đặc hiệu của tuyến t.iền liệt, được tiết ra từ các tế bào biểu mô của tuyến t.iền liệt.
Phần lớn PSA trong m.áu đều gắn với các protein huyết tương. Chỉ có khoảng 30% PSA tự do không gắn với các protein. Các PSA tự do này không có khả năng p.hân h.ủy protein. Đây chính là lý do chỉ số PSA được coi là dấu ấn của ung thư t.iền liệt tuyến.
Tỷ lệ chỉ số PSA tự do/PSA toàn phần được dùng để chẩn đoán ung thư t.iền liệt tuyến nếu nồng độ PSA tự do nằm trong khoảng 4 – 10 ng/ml. Nếu tỷ lệ PSA tự do/PSA toàn phần dưới 15%, nguy cơ bị ung thư t.iền liệt tuyến là rất cao.
Khi nào nên thực hiện xét nghiệm PSA?
Thực tế, không phải ai cũng được thực hiện xét nghiệm PSA. Phương pháp này chỉ được áp dụng trong một số trường hợp đặc biệt. Cụ thể như:
– Khi muốn sàng lọc ung thư t.iền liệt tuyến. Nam giới từ 50 trở lên nên thực hiện xét nghiệm PSA hàng năm để sàng lọc và phát hiện bệnh sớm.
– Những người có t.iền sử gia đình mắc bệnh ung thư tuyến t.iền liệt cũng nên tiến hành sàng lọc ung thư t.iền liệt tuyến từ năm 40 t.uổi trở đi.
– Xét nghiệm PSA được dùng để theo dõi hiệu quả của quá trình điều trị ung thư t.iền liệt tuyến cũng như nguy cơ tái phát bệnh. Tùy theo từng mức độ bệnh cụ thể, xét nghiệm PSA cần được theo dõi sau khi điều trị ung thư t.iền liệt tuyến từ 6 đến 36 tháng.
Chỉ số PSA và những cảnh báo nguy cơ ung thư t.iền liệt tuyến
Đối với người bình thường, chỉ số PSA toàn phần trong m.áu sẽ rất thấp (dưới 4 ng/mL). Tuy nhiên, càng lớn t.uổi kích thước của tuyến t.iền liệt sẽ càng tăng cao.
Chỉ số PSA là dấu ấn của ung thư t.iền liệt tuyến. Cụ thể như sau:
– Khi nồng độ PSA trong m.áu tăng cao, nam giới có nguy cơ mắc ung thư t.iền liệt tuyến. Giá trị giới hạn để chẩn đoán ung thư tuyến t.iền liệt của chỉ số PSA toàn phần trong huyết tương 4ng/ml, độ đặc hiệu khoảng 91% và độ nhạy khoảng 21%.
– Khi mắc ung thư t.iền liệt tuyến tốc độ tăng PSA toàn phần trong m.áu sẽ tăng nhanh hơn bình thường. Những người có tốc độ tăng PSA toàn phần từ 0.75 ng/mL/năm trở lên sẽ có nguy cơ mắc ung thư t.iền liệt tuyến cao hơn.
– Những người có tốc độ tăng PSA
Tuy nhiên, không phải cứ có nồng độ PSA trong m.áu tăng cao đồng nghĩa với việc bị mắc ung thư t.iền liệt tuyến. Một số tình trạng bệnh lý khác cũng có thể dẫn đến tăng nồng độ PSA trong m.áu như: viêm tuyến t.iền liệt, Phì đại tuyến t.iền liệt lành tính , bí đái phải đặt sonde niệu đạo…
Do đó, để chẩn đoán chính xác hơn ung thư t.iền liệt tuyến, người bệnh cần định lượng chỉ số PSA tự do và tỷ số PSA tự do/PSA toàn phần.
Thực tế, việc xác định tỷ số PSA tự do/PSA toàn phần giúp chẩn đoán và phân biệt hiệu quả những trường hợp bị ung thư t.iền liệt tuyến.
Việc xác định tỷ số PSA tự do/PSA toàn phần giúp chẩn đoán và phân biệt hiệu quả những trường hợp bị ung thư t.iền liệt tuyến
Nếu nồng độ PSA toàn phần huyết tương tăng từ 4 lên 10 ng/mL, tỷ số PSA tự do/PSA toàn phần 0,15 sẽ giúp chẩn đoán ung thư t.iền liệt tuyến với độ đặc hiệu khoảng 56,5% và độ nhạy 85%.
Đặc biệt, có khoảng 23% bệnh nhân mắc ung thư t.iền liệt tuyến có tỷ số PSA tự do/PSA toàn phần dao động từ 0,15-0,19. Khoảng 9% bệnh nhân bị ung thư t.iền liệt tuyến có tỷ số PSA tự do/PSA toàn phần 0,20.
Để bảo vệ sức khỏe, nam giới đặc biệt là những người có độ t.uổi từ 50 trở lên cần thăm khám và thực hiện những xét nghiệm cần thiết để phát hiện và điều trị ung thư t.iền liệt tuyến hiệu quả.